Thời Trần, Phật giáo có những trường phái riêng của Việt Nam với những giáo lý thực tế trên nền tảng căn bản của tôn giáo từ bi, bác ái và vị tha. Phật giáo cũng được truyền bá nhưng ảnh hưởng không sâu rộng bằng thời Lý. Ðạo Nho bắt đầu có ưu thế rõ rệt do nhu cầu của việc trị nước của chính quyền, nhưng Phật giáo vẫn lớn mạnh và là chỗ dựa cho cuộc sống tinh thần của quảng đại quần chúng. Nhiều nhà vua, vương hầu, khanh tướng cũng xuất gia quy y cửa Phật. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử, lập ra Thiền Phái Trúc Lâm – hệ thống Thiền phái đặc trưng đầu tiên của Việt Nam.
THAM KHẢO: LĂNG MỘ ĐÁ QUANG TRUNG
Sau khi Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lý, bị Trần Thủ Độ lập kế ép nhường ngôi cho chồng, triều Lý chấm dứt, Trần Cảnh lên ngôi mở ra một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc với 3 lần đại thắng quân Nguyên Mông. Nhà Trần (1225-1400) trải qua các triều đại sau:
Trần Thái Tông (1225-1258)
Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1278-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1372-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400).
Sau đó, Nhà Hồ (1400-1407) trải hai triều Hồ Quý Ly (1400), Hồ Hán Thương (1401-1407) và thời Hậu Trần kháng chiến chống quân Minh (1407-1413) gồm Giản Định Đế (1407-1409) và vua Trùng Quang (1409-1413), do thời gian cai trị quá ít và chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc xảy ra liên miên nên không có công trình Phật giáo nào được xây dựng trong giai đoạn này hoặc không còn dấu tích nào còn lại cho đến ngày nay. Do đó, ta nói đến kiến trúc Phật giáo thời Trần là nói đến kiến trúc chùa tháp được xây dựng hoặc trùng tu toàn phần thời kỳ 1225 đến 1440.
Thời Trần, Phật giáo có những trường phái riêng của Việt Nam với những giáo lý thực tế trên nền tảng căn bản của tôn giáo từ bi, bác ái và vị tha. Phật giáo cũng được truyền bá nhưng ảnh hưởng không sâu rộng bằng thời Lý. Ðạo Nho bắt đầu có ưu thế rõ rệt do nhu cầu của việc trị nước của chính quyền, nhưng Phật giáo vẫn lớn mạnh và là chỗ dựa cho cuộc sống tinh thần của quảng đại quần chúng. Nhiều nhà vua, vương hầu, khanh tướng cũng xuất gia quy y cửa Phật. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông xuất gia lên núi Yên Tử, lập ra Thiền Phái Trúc Lâm – hệ thống Thiền phái đặc trưng đầu tiên của Việt Nam.
Nhà Trần trải qua ba cuộc chiến chống Nguyên Mông, tuy đạt được thắng lợi nhưng các công trình văn hóa của nước nhà đã bị tổn hại rất nhiều dưới sự dày xéo của quân giặc. Đến giai đoạn cuối, chiến tranh với Chiêm Thành xảy ra hơn mười lần khiến đất nước cũng bị điêu đứng một thời gian dài. Chiến tranh đã tàn phá nhiều công trình chùa tháp. Kiến trúc Phật giáo thời kỳ này chủ yếu là trùng tu hoặc xây dựng lại các công trình đã có từ thời trước. Một số trung tâm Phật giáo được mở mang xây dựng hoàn chỉnh như khu chùa tháp tại Yên Tử (Quảng Ninh). Các công trình khởi dựng thời kỳ này thường có quy mô nhỏ như chùa tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên), Bối Khê (Hà Tây)…
– Những công trình Phật giáo tiêu biểu trong thời Trần
Các ngôi chùa được xây dựng rải rác ở Đông Bắc và Tây Bắc Bắc Bộ nhưng tập trung nhất vẫn ở ven các triền sông vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày nay. So với nhà Lý, phạm vi xây dựng chùa tháp thời Trần đã được mở rộng vào hướng Nam đến Thanh Hóa, Nghệ An.
+ Chùa Phổ Minh (Nam Định) được xây dựng khoảng năm 1262, còn lưu giữ được cánh cửa gỗ bốn tấm bằng gỗ lim, cao 1,9m và mỗi cánh rộng 0,8 m với những trang trí hình rồng, hoa lá và sóng nước. Một số thành bậc cửa bằng đá chạm rồng và sấu. Tháp Phổ Minh bằng đá, dựng trước cửa chùa vào năm 1305.
+ Chùa Bối Khê (Hà Tây) dựng năm 1338, chùa giữ được một số đầu bẩy chạm hình đầu rồng ngậm ngọc, phía ngoài có một hình chim, lưu được bộ vì kèo tại gian giữa tòa Thượng Điện và một số chạm khắc chim thần Garuda ở góc bệ đá và tường gạch, bệ đá hoa sen ba tượng năm 1382.
+ Chùa Thái Lạc (Hưng Yên) còn giữ được một số mảng cốn, ván nong trang trí rất đẹp. Điêu khắc gỗ của chùa này và chùa Bối Khê tiêu biểu cho điêu khắc gỗ kiến trúc Phật giáo thời Trần.
+ Chùa Báo Ân (Gia Lâm, Hà Nội) còn lại những di vật cổ như mảng nền, kết cấu sáu hàng chân cột, một vì rộng 13m và một số hiện vật bằng đất nung mang phong cách trang trí thời Trần. Điêu khắc trang trí có bệ đá hình vũ nữ, một đầu rồng và một số trang trí lá đề là có giá trị.
+ Chùa Vĩnh Khánh và tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc) hiện nay, niên đại của tháp Bình Sơn còn gây nhiều tranh cãi, nhưng theo nhiều tư liệu đáng tin cậy thì tháp Bình Sơn khởi dựng trong thời Trần. Tháp Bình Sơn là ngôi tháp cổ sử dụng chất liệu đất nung có giá trị rất cao về mỹ thuật và kiến trúc Phật giáo.
– Thiền phái Trúc Lâm hình thành với ý tưởng xây dựng một không gian Phật giáo thanh tịnh đã gắn liền tên tuổi với các danh sơn như Yên Tử (Quảng Ninh), Côn Sơn (Hải Dương), Quỳnh Lâm (Quảng Ninh)… Những ngôi chùa tại các nơi này được xây dựng từ thời kỳ trước và được xây dựng thành các trung tâm Phật giáo dưới thời Trần. Dấu vết thời Trần còn lại rất ít, ví dụ như ở Yên Tử, những viên gạch vuông trang trí hoa dây, nền tháp đá thời Trần có cạnh 3m15 với mặt bằng hình lục lăng.
– Các ngôi chùa khác được khởi dựng thời kỳ này như chùa Hương Tích ở núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), chùa Hào Xá (Hưng Yên), Chùa Dương Liễu (Hà Tây), chùa Hoa Long, chùa Thông (Thanh Hóa)… Một số ngôi chùa lưu giữ được một vài hiện vật như chùa Long Hoa (Nam Định) có lưu giữ bệ thờ hoa sen, tượng rồng đá. Chùa Dâu có bộ vì nóc thượng điện từ thời Trần. Chùa Thầy còn lưu giữ bộ lưng ngai năm 1346. Chùa Hương Trai (Hà Tây) lưu giữ được bệ đá năm 1358-1369. Chùa Xuân Lũng có tòa sen năm 1386. Chùa Đại Bi có tòa sen ghi năm 1374. Chùa Che (Hà Tây) hiện còn bia đá. Ngoài ra, một số nền tháp thời này đã được tìm thấy như Ghềnh Tháp (Nam Định), Dưỡng Phú (Hưng Yên), Linh Nga bảo tháp và Xuân Hồng (Nghệ Tĩnh).
– Đặc điểm kiến trúc
Nghiên cứu về kiến trúc thời Trần hiện nay có thể dựa vào hai nguồn: thư tịch cổ (chỉ còn ghi chép vắn tắt qua sử sách, bia ký) và thực địa. Trải qua hàng trăm năm biến động, dưới tác động của chiến tranh, ảnh hưởng khắc nghiệt của khí hậu, hay thậm chí những lần trùng tu, bao nhiêu công trình đã bị hủy hoại chỉ còn để lại dấu vết hoặc thay đổi hình dạng ban đầu hoàn toàn. Tuy nhiên vẫn còn một số công trình từ thời kỳ này còn tương đối nguyên vẹn cho đến tận hôm nay như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, vì nóc Thượng điện chùa Thái Lạc, Bối Khê…
+ Vị trí, thế đất
Ở thời kỳ đầu, chùa tháp được xây dựng dưới sự chỉ đạo của hoàng cung. Thờ Phật được thờ trong một điện thờ riêng, cây tháp không còn chức năng thờ Phật nữa mà trở lại tính chất là mộ chí của các nhà tu hành đạo Phật hoặc tháp kỷ niệm. Thời Trần cũng như thời Lý, chùa tháp thường được lựa chọn những địa thế trên đồi lớn, núi cao để xây dựng. Vị trí những ngôi chùa xây dựng thời kỳ đó chẳng những xa lánh cuộc sống trần tục mà còn gợi nên không khí trầm mặc, thanh tịnh và u nhã phù hợp với sự thiêng liêng của Thần Phật mà nhu cầu tôn giáo đòi hỏi.
Với địa hình núi cao thì các kiến trúc được xây dựng theo các lớp nền tương tự như thời Lý với các cao độ khác nhau như chùa Yên Tử hay chùa Lấm (Quảng Ninh). Nhiều chùa được dựng trên địa thế rộng như chùa Lân (chân núi Yên Tử), chùa dựa vào chân núi, trước mặt hướng ra suối lớn, vườn chùa rộng rãi chạy dài từ cổng vào. Chùa Hoa Yên được dựng trên hai nền đất bạt ở sườn núi. Các ngôi chùa quay hướng Nam, lấy núi làm hậu chẩm, những dãy núi trùng điệp hai bên như tay long, tay hổ ôm lấy Thái cực. Trước mặt lấy suối Giải Oan làm minh đường.
Về sau, chùa làng phát triển mạnh. Theo văn bia chùa Thiên Phúc (Bắc Giang), nhà nho Lê Quát đã cảm thán rằng: “Việc họa phúc của nhà Phật rung động lòng người sao mà sâu và mạnh đến thế! Trên thì từ vương công, dưới thì đến thứ dân, phàm lo việc Phật thì tuy hết của cải cũng không tiếc gì. Ngày nay cúng tiền vào chùa tháp thì hớn hở như cầm tờ chứng khoán để được báo đáp ngày mai. Cho nên từ kinh thành ở trong cho đến châu phủ ở ngoài, khắp hang cùng ngõ hẻm, người ta không được lệnh mà cứ theo, không thề thốt mà cứ tin, nơi nào có dân cư là nơi đó có chùa Phật, phế rồi lại hưng, đổ rồi lại sửa, chuông trống lâu đài, gần nửa dân cư lao vào đó.” Từ văn bia này và nhiều văn bia khác cũng như thực địa, có thể thấy chùa quy mô nhỏ được xây dựng ở khắp nơi trong thời kỳ này.
Từ một số vị trí hiện nay của các công trình xây dựng vào thời Trần, ta thấy các công trình đều được xây dựng ở các vùng tách biệt với xóm làng, nhưng lại là trung tâm của nhiều vùng lân cận (ví dụ chùa Phổ Minh, chùa Vĩnh Khánh). Thứ hai, các công trình đều được xây dựng ở nơi phong quang thoáng đãng. Ví dụ, chùa Bối Khê nằm giữa vùng đất trù phú cửa ngõ phía Tây của kinh thành Thăng Long, thuộc tả ngạn sông Đáy, từng một thời là con đường giao thông huyết mạch trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trước chùa xưa kia có sông Đỗ Động làm nơi tụ thủy, rất đẹp và tạo nên những phong cảnh non nước hữu tình cho cả các công trình xây dựng trên đất bằng. Ngay cả những ngôi chùa đồng bằng cũng rất chú trọng đến lựa chọn vị trí phù hợp với cảnh quan chung. Ví dụ tháp chùa Phổ Minh được dựng trong phủ Thiên Trường xưa (hiện ở tỉnh Nam Định) hòa chung vào tổng thể xung quanh, xóm làng ở phía sau, đồng ruộng phía trước tạo nên điểm nhìn cho toàn bộ công trình.
Các công trình chùa tháp liên hệ chặt chẽ với thiên nhiên, phù hợp với cảnh trí xung quanh tạo nên một kiến trúc tổng thể hoàn chỉnh. Công trình như mọc lên và hòa vào với đất, phù hợp với thiên nhiên và khung cảnh thiên nhiên chung quanh cũng làm tôn thêm vẻ đẹp của kiến trúc rất nhiều. Đối với các công trình không thuộc dạng danh sơn, trong toàn cảnh cũng như từng thành tố cấu thành kiến trúc công trình, sự đăng đối tiếp thu từ kiến trúc thời Lý vẫn được đưa lên vị trí quan trọng hàng đầu.
Tháp thời Trần được dựng khá nhiều trong các công trình kiến trúc Phật giáo với chức năng làm nơi thờ Phật, kỷ niệm hoặc tháp mộ. Ví dụ, tháp Bình Sơn, tháp Phổ Minh là loại tháp được dựng nên với tính chất kỷ niệm, tháp ở Yên Tử thì thuộc dạng tháp mộ. Kích thước của tháp thời Trần nhỏ nhưng giống kiểu dáng tháp thời Lý. Tháp thường gồm nhiều tầng, tiết diện vuông, đôi khi có hình lục giác (tháp mộ thờ Trần Nhân Tông ở Yên Tử), kích thước càng lên cao càng thu nhỏ dần. Tháp giờ không còn là kiến trúc chính nữa mà chỉ là những kiến trúc phụ trong tổng thể một ngôi chùa. Lòng tháp thường hẹp không đủ làm Phật điện nên phải có một điện thờ Phật ở phía sau. Do đó, khác với thời Lý, tháp thời Trần thường có vị trí trước sân chùa, ví dụ tháp Phổ Minh chùa Phổ Minh, tháp Bình Sơn chùa Vĩnh Khánh, tháp Trần Nhân Tông chùa Hoa Yên… tháp thường được xây trước ngôi chùa.
Ðến cuối Trần, chùa làng phát triển mạnh. Chùa gồm điện thờ Phật, sư Tổ, các phòng Tăng, các tháp mộ ở hai bên và phía sau điện thờ. Từ thời Trần, kiến trúc gỗ đã có những bằng chứng khảo cổ tồn tại. Một số Phật điện và tháp thời Trần còn khá nguyên vẹn cho đến thời nay. Nền điện thờ Phật cao và hình vuông (phát triển từ tháp thờ Phật thời trước). Chùa chỉ còn chức năng tu hành, không còn là hành cung cho vua ngự. Các công trình khiêm nhường về kích thước, vừa phải về quy mô nên mang lại cảm giác ấm cúng và gần gũi với con người hơn nhiều so với các công trình đồ sộ thời Lý.
Kiến trúc gỗ: Kiến trúc gỗ tại một số ngôi chùa như Thái Lạc, Bối Khê, kiến trúc mang dấu ấn thời Trần chỉ còn lưu lại qua Thượng điện, còn ngôi chùa hiện nay được mở rộng rất nhiều qua các thời sau.
Những tòa thượng điện còn lại của ba ngôi chùa là chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê có chung một kiểu thức kiến trúc với kích thước tương đối tương đồng. Ðiện thờ Phật thời Trần thường có nền là hình vuông và thời Trần đã bắt đầu xuất hiện kiến trúc kiểu chuôi Vồ và chữ Tam. Các nền chùa thường được tôn cao hơn mặt đất bình thường và không lát gạch. Các chùa làng như Thái Lạc và Bối Khê có Phật điện xây trên nền cao trên dưới 1m, mỗi cạnh xấp xỉ 10m, tạo thành một nền đế hình vuông. Căn cứ vào khoảng cách giữa các cột cái với nhau thì kích thước chùa thời này thường nhỏ (ở chùa Bối Khê và Thái Lạc là 3m).
Kiến trúc Phật điện là kiến trúc một gian hai chái, không có tường vách bao. Các tòa thượng điện đều có bốn cột cái lớn ở giữa, 12 cột quân (đồng thời làm cột hiên vì chia gian chỉ có bốn hàng chân cột) xung quanh, do đó hai vì chia gian đều thuộc gian giữa. Kết cấu khung gỗ đỡ hai mái chính ở đằng trước và đằng sau, và hai mái bên, toàn bộ trọng lượng mái chuyển qua cột xuống nền nhà. Mái tỏa ra bốn phái, lan xuống thấp với các đầu đao vươn thành những đóa hoa ở bốn góc cong hất lên. Lối cấu trúc khung gỗ này được duy trì đến các thời sau như một mẫu mực của thức kiến trúc cổ Việt Nam.
Kiến trúc tháp: Ta có thể thấy được hình ảnh kiến trúc tháp thời kỳ này qua hai ngôi tháp điển hình còn giữ được đến ngày nay, đó là tháp Phổ Minh và tháp Bình Sơn.
Tháp Phổ Minh là một công trình bằng đá và gạch gồm 14 tầng và cao 19,51m, mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh dài 5m21, tầng một cao 2m2. Tuy nhiên, có tư liệu cho rằng, 11 tầng dưới là của thời Trần, còn ba tầng trên không có nẹp đá ba góc và trang trí hoa văn là sản phẩm của thời gian gần đây. Mái các tầng nhô ra rất ít, càng lên cao càng thu hẹp lại, chiều cao các tầng càng thấp đi và kết thúc bằng một chóp búp tạo cho dáng tháp thêm thon thả, bốn mặt tháp đều trổ cửa tò vò. Tháp có dáng cao thanh mảnh do bề ngang hẹp, các rìa mái tầng tầng lớp lớp tạo một cảm giác siêu thoát và linh thiêng cho chốn cửa Phật.
Tháp Bình Sơn được xây dựng bằng đất nung già đỏ sẫm, giờ chỉ còn 11 tầng và cao 15m (theo ghi chú các viên gạch xây dựng tháp trong đợt trùng tu di tích cho thấy tháp có thể cao đến 14 tầng). Tháp Bình Sơn có cạnh đáy bệ tháp là 4,45m, cao 1,62m, cạnh tầng thứ 11 cạnh 1m55, dáng tháp chắc đậm. Tầng thứ nhất cao 2,72m, chiều mỗi cạnh rộng 3,3m, bốn mặt trổ cửa tò vò.
+ Vật liệu và kỹ thuật xây dựng
Vật liệu xây dựng:
Kỹ thuật xây dựng thời Trần phát triển rực rỡ do tiếp thu được tinh hoa của nền nghệ thuật thời Lý và được hun đúc trong quá trình lao động của ông cha. Chất liệu mỹ thuật thời Trần để lại phong phú hơn thời Lý, do đó kỹ thuật cũng có những riêng biệt ở một cấp độ cao hơn thời Lý. Đối với các nhà khung gỗ hiện còn như vì kèo thuần gỗ (gỗ mít, gỗ lim), như thượng điện chùa Thái Lạc, Bối Khê, Dâu đã giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát hơn về kiến trúc khung gỗ sớm nhất còn tồn tại cho đến ngày nay.
Chất liệu xây tháp:
Các ngôi tháp thường là sự kết hợp giữa đá và gạch, hoặc làm bằng đất nung. Các chất liệu như đá xanh được sử dụng làm bệ dưới tháp Phổ Minh tạo vẻ đẹp, và tăng độ bền vững cho công trình. Vật liệu được sử dụng ở các tầng trên là gạch nung mỏng, nhẹ. Hồ lô trên đỉnh tháp bằng đồng (giờ đã mất), các dây đồng được sử dụng ràng buộc các kết cấu với nhau. Các loại gạch vuông (22cm x 22cm) và loại dài (45cm x 22cm) được sử dụng để xây lõi tháp Bình Sơn, gạch trang trí bên ngoài có kích thước 46cm x 46cm và những viên gạch hình Thước Thợ (L) để tăng sự chắc chắn cho lớp gạch bên ngoài.
Kỹ thuật xây dựng:
Kiến trúc thời Trần đã để lại kỹ thuật dựng chùa và xây tháp. Khung gỗ của chùa là những thành phần to lớn chồng lên nhau, lấy sức nặng bản thân để tạo nên sự vững chắc. Những vì kèo còn lại của thời kỳ này có những thành phần cấu trúc cơ bản định hình nên kỹ thuật xây dựng nhà khung gỗ của các thời kỳ sau. Thành phần chủ yếu là cột cái, cột quân, xà, con chồng, đấu kê. Các thành phần kết cấu gỗ được liên kết với nhau bằng mộng chốt có thể tháo lắp một cách dễ dàng.
Kỹ thuật xây tháp:
Sự cân bằng của các tháp dùng sức nặng tự thân là chính, các thành phần của tháp được gắn kết bởi các chất keo vữa và mộng. Mộng chốt nối gạch ốp ngoài với khối trụ bên trong và mộng cá chì được dùng để nối các viên gạch với nhau. Ở các tầng gạch phía dưới, người xưa còn dùng các dây đồng xâu móc qua viên gạch để tăng độ liên kết kiến trúc (tháp Phổ Minh). Keo vữa xây tháp có hai loại, xây lõi gạch bên trong (tháp Bình Sơn) sử dụng keo bằng chất đất mịn vàng có độ kết dính cao và keo để xây ốp bên ngoài bằng hợp chất vôi, mật và giấy dó với độ kết dính rất cao.
Lòng tháp Bình Sơn được xây thành khối trụ vuông, càng lên cao càng thu hẹp tạo nên một cốt lõi hình trụ vững chắc cho công trình. Kết thúc mỗi tầng người ta xây nhô ra mấy hàng gạch để tạo diềm mái, vừa làm đẹp vừa tạo thế cân bằng cho tháp. Đặc biệt, các viên gạch trang trí mặt ngoài tháp được đánh dấu ghi rõ vị trí tầng thứ mấy và là viên thứ mấy trong tầng đó. Việc đánh dấu này phổ biến trong nhiều di tích phản ánh trình độ kỹ thuật và tư duy tổng hợp của thời kỳ này đã rất phát triển.
Ngoài ra, ta không thể không kể đến kỹ thuật làm móng của tháp Phổ Minh, với kinh nghiệm xây móng nền chịu lực. Để xây móng tháp, người ta đào sâu xuống 2,4m, móng được gia cố thành hai lớp, một bằng đá và một bằng sét trộn sỏi nện chặt. Lớp đất sét cũng được chia thành nhiều lớp, lớp sỏi trộn sét đen dưới cùng, các lớp trên là sỏi trộn sét nâu vàng (với độ dày 1,52) m tạo ra lớp móng đầu tiên vững chắc. Trên lớp này, người ta xây móng bằng đá khối kích thước trung bình 1,6m x 1,4m x 0,8m, tạo thành nền móng kiên cố hình vuông mỗi chiều 5,5m. Trên đó, người xưa bắt đầu xây dựng đế tháp và các tầng tháp. Nói chung, việc xây cất ở thời Trần đều sử dụng kỹ thuật cấu ráp các bộ phận kiến trúc với nhau trên căn bản vật lý rất logic.
Trang trí trên gỗ của thời Trần không bay bướm như thời Lý nhưng sự khỏe khoắn hiện ra trong từng nét chạm khắc tinh xảo. Chất dân dã đã được thể hiện trong đường nét và bố cục hình khối tạo cho trang trí thời Trần mang một đặc điểm riêng dễ nhận diện. Đề tài trang trí thời Trần thường mang tính chất chính thống, quyền quý, như rồng, phượng, sấu, hoa mẫu đơn, quầng lửa, sóng nước, hoa sen, hoa dây… Một số yếu tố văn hóa Ấn có thể thấy trong hình tượng các vũ nữ múa, các nhạc công, các tượng chim kiểu Kinnari và chim thần kiểu Garuda…
Các vì kèo gỗ để lại từ đời Trần cho thấy sự phong phú trong nghệ thuật chạm khắc của ông cha ta. Những ván bưng giữa các giá chiêng chạm khắc quần lửa nhọn đầu với đề tài lưỡng long tranh châu. Ở chùa Thái Lạc, thì ván bưng đó chạm khắc hình hai tiên nữ đầu người mình chim, còn ở chùa Bối Khê là phượng hoàng chầu nguyệt. Những trụ đỡ cũng được trang trí với các hình tiên nữ dập dờn trên sóng nước, tay giơ lên đỡ bệ sen, hay hình phỗng (chùa Thái Lạc) và có khi là một đóa mẫu đơn (chùa Bối Khê). Hình tượng tiên nữ thường được chọn làm đề tài trang trí cho các bức ván nong, lúc thì thổi tiêu, kéo nhị hay thổi sáo đánh đàn. Có những bức chạm khác nhạc công thổi sáo và chơi các nhạc cụ dân tộc.
Bố cục cân xứng, đường nét mềm mại, đôi lúc gân guốc nhưng điêu luyện. Những mảng khối đầy đặn ẩn chứa sự chắc khỏe là đặc điểm nổi trội của trang trí thời kỳ này. Ví dụ như cảnh dâng hoa, tấu nhạc trong trang trí chạm khắc ván nong (giữa hai thành xà thượng và xà hạ) chùa Thái Lạc (Hưng Yên). Nhân vật trung tâm là vũ nữ, nhạc công hay có thể là chim thần Kinnari với những lối bố cục đăng đối và bút pháp giống nhau, làm bật lên sự lặp đi lặp lại trong không gian của hình tượng. Sự tương phản về khoảng đặc, khoảng rỗng, giữa sáng và tối đá được trải đều qua phần ván gỗ bằng phẳng với lớp hoa văn ken đặc.
Thứ đến, nét bình dị và hiện thực cũng là một đặc điểm không thể thiếu trong trang trí thời kỳ này. Thậm chí, những hình tượng nghệ thuật mang tính thần thoại như Kinnari vẫn mang những khuôn mặt hết sức thật đẹp, trầm tư của những con người thế tục. Những hình chạm nổ bẹt như hình cây cảnh và dê ngoạm nhánh lá ở hai đầu bệ, hình sư tử và con hổ chạm đá trên bệ thờ chùa Quế Dương (Hà Tây) tựa như những bức họa đơn giản với lối tả thực mạnh mẽ, hình phỗng trên trụ gỗ chùa Thái Lạc với mảng khối chắc khỏe… Nói chung, đề tài mỹ thuật thời Trần rộng hơn ở thời Lý, vì vừa tập hợp hết các đề tài chính thống lại còn có những đề tài gần gũi với dân gian hơn và có tính hiện thực hơn.
Trang trí tháp thời kỳ này đơn giản hơn rất nhiều so với trang trí thời Lý. Các thành bậc cửa vào (quanh tháp Phổ Minh) là hình tượng sấu và rồng quen thuộc. Cửa tháp và các mặt tường trang trí các hình hoa dây. Các tầng trên của tháp Phổ Minh thường thấy trang trí chủ yếu trên mặt gạch với những hình rồng cuộn mây. Trang trí tháp Bình Sơn cũng rất phong phú, ở lớp đế tháp chạm các hình phù điêu sư tử hí cầu, cửa tầng 1 trang trí hình rồng, trên có hình đấu ba chạc xen kẽ giữa các hình sừng tê và hoa lá, nằm gọn trong hình lá đề. Tầng 2 và 3 trang trí hoa dây, đấu ba chạc, cánh sen. Các tầng trên tháp Bình Sơn thì trang trí chủ yếu hình cánh hoa cúc, từ tầng 8 trở lên là hình tháp 5, 6 tầng đang tỏa hào quang tương đối đơn giản xen kẽ hoa chanh, các diềm mái trang trí hoa dây.
Một số đặc điểm về trang trí mỹ thuật phân biệt với thời Lý như sau: hình tượng con rồng thời kỳ này thân thường chạm nổi cao, uốn khúc nhẹ nhàng mềm dẻo và thoải mái, hình khối tròn lẳn, đuôi múp dần. Khác hẳn với hình rồng thời Lý với thân hình thanh mảnh và uốn khúc gò bó. Mào lửa dần mất đi mà có thêm cặp sừng và đôi tay. Hoa sen thời Trần như bệ đá chùa Ngọc Đình (Hà Tây) hay tháp Phổ Minh đều mập và khác với hoa sen thanh dài trong trang trí thời Lý. Cúc dây thời Trần như trên bệ đá chùa Bối Khê hay bia chùa Hướng Đạo (Hưng yên) là dạng hồi văn uốn tròn, thoáng đạt khác với thời Lý cúc dây thường ở trong vòng tròn do đường dây cuốn lại, hai bên dây có hai hàng lá song song. Ngoài tượng tròn, chạm nổi trang trí giống thời Lý, thời Trần có thêm hình trang trí được khắc vạch những nét chìm nông và mảnh như trên đá ở tháp Phổ Minh và các bệ hoa sen khối hộp.
+ Bài trí tượng thờ
Theo sách Tam Tổ Thực Lục cho thấy số lượng tượng Phật được làm rất nhiều, có nhà sư cúng một lần đã cho đúc tới 1300 pho tượng Phật lớn nhỏ. Vua Minh Tông khi mới lên ngôi đã cho đúc ở chùa Siêu Loại ba pho tượng lớn cao 17 thước. Có những tượng kích thước khá lớn như tượng Di Lặc cao 1,6 trượng hoặc hơn nữa. Vào đời Kiến Trung, thứ 7 (1231), “Thượng Hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ”. Nhưng hiện vật về tượng Phật thời Trần cũng như hệ thống bài trí tượng thờ trong chùa như thế nào đến nay vẫn còn chưa xác định được.
Tuy nhiên, ở một số chùa làng, trong điện Phật còn giữ được những bệ thờ bằng đá dài suốt chiều rộng gian giữa khoảng 3m x 1m (4m x 2m) và cao hơn 1m, được người xưa gọi là “Phật bàn” hay “Thạch Phật bàn” là một dạng như nhang án, không có dấu vết đặt tượng bên trên. Có giả thuyết cho rằng có thể người xưa thờ chữ Phật hoặc tranh Phật thay thế cho tượng.
Cho đến ngày nay, chưa tìm được tượng Phật chắc chắn của thời Trần nhưng tìm được khá nhiều bệ ba tượng (thường ghi niên đại cuối thế kỷ XIV). Vậy đến thời Trần, Phật giáo Đại thừa đã khẳng định sự lớn mạnh qua việc thờ ba vị chư Phật Quá khứ, Hiện tại và Vị lai.
– Kết luận phần 2
Trải qua gần 200 năm tồn tại, thời Trần đã đóng góp cho kiến trúc chùa tháp Việt Nam nhiều công trình có giá trị còn tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay như tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn… Thừa hưởng một nền kiến trúc đồ sộ thời Lý (từ các công trình, kỹ thuật xây dựng, trang trí…), nền kiến trúc thời Trần giai đoạn đầu mang những ảnh hưởng đặc trưng của kiến trúc thời Lý. Công trình luôn gắn bó với môi trường, cảnh quan đẹp đẽ, vị trí thuận tiện, những bố cục trang trí tinh xảo và cân xứng. Không còn những công trình đồ sộ như thời Lý nhưng những kiến trúc Phật giáo với tầm vóc vừa phải của thời Trần cũng để lại một dấu ấn đáng tự hào trong lịch sử phát triển Phật giáo ở nước ta.
Kế thừa di sản nghệ thuật từ thời Lý, nghệ thuật thời Trần đã phát triển theo một con đường riêng, tạo ra một thời đại phát triển rực rỡ nữa của Phật giáo. Khác với sự tinh vi, trau chuốt trong nghệ thuật thời Lý, phong cách nghệ thuật giai đoạn này giản đơn, khỏe khoắn, như muốn thoát khỏi lễ nghi thể hiện trong từng đường nét chạm trổ và kiến trúc. Trang trí thời Trần đã để lại những nét riêng với hình dáng chắc khỏe, đề tài gần gũi người dân và mang tính hiện thực cao hơn. Tuy nhiên, do chiến tranh của phương Bắc và phương Nam đã hạn chế sự phát triển của kiến trúc thời Trần và mang lại nhiều ảnh hưởng ít nhiều của nền kiến trúc ngoại lai trong các lối bố cục và hoa văn trang trí. Nhưng trên hết, những nét truyền thống dân tộc về cơ bản vẫn được bảo lưu nguyên vẹn trong nền kiến trúc thời Trần, đóng góp không nhỏ vào kho tàng kiến trúc của dân tộc.
——
Tài liệu tham khảo:
Lê Mạnh Thát. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 1 (1999), tập 2 (2001), tập 3 (2002), NXB TP.HCM
Nguyễn Đức Nùng (chủ biên). Mỹ thuật thời Trần. NXB Văn Hóa Hà Nội 1977.
Chu Quang Trứ. Mỹ thuật Lý – Trần, Mỹ thuật Phật giáo. NXB Thuận Hoá 1998.
Trần Lâm Biền. Chùa Việt. NXB VH-TT 1996.
Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB Văn Học Hà Nội 1979.
Nguyễn Bá Lăng. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Viện Đại học Vạn Hạnh 1972.
Nguyễn Duy Hinh. Tháp cổ Việt Nam 1992.
Đá mỹ nghệ Quang Trung
Điện Thoại : 0943 628 118
Email: quangtrung118.nb@gmail.com
Địa chỉ: Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình
Quý khách tham khảo thêm tại:
– Lăng mộ đá
– Mộ đá
– Cột đá
– Cuốn thư đá
– Mẫu Mộ đá